Trải nghiệm Ngày hội văn hóa Nhật Bản 2019 cùng Atlantic
Ngày hội văn hóa Nhật Bản 2019 tại Atlantic là chương trình mang sự trải nghiệm văn hóa Nhật Bản, cách sống, cách làm việc của con người ở đất nước này đến với những người có đam mê với đất nước mặt trời mọc, đặc biệt là học sinh, sinh viên đang có mong muốn được đặt chân đên đất nước Nhật Bản qua các chia sẻ của diễn giả và trò chơi: “Tôi yêu Nhật Bản”. Bên cạnh đó, chương trình còn tạo động lực cho những bạn đang học tiếng Nhật cố gắng hơn trong quá trình phấn đấu, là tiền đề cho học sinh, sinh viên bắt đầu tìm hiểu, khám phá thêm một ngôn ngữ mới, đầy thú vị này. Hơn nữa, Ngày hội văn hóa Nhật Bản 2019 có ý nghĩa như chiếc cầu nối giữa các bạn học sinh sinh viên có nhu cầu tìm hiểu văn hóa, ngôn ngữ tiếng Nhật để đi du học với các trường Đại học Nhật Bản và Atlantic.
Tại ngày hội, các bạn học sinh sẽ có cơ hội tham gia các hoạt động độc đáo và đa dạng với các gian hàng truyền thống: thư pháp, cắm hoa Ikebana, Gấp giấy Origami cùng Nghệ nhân, mặc thử Yukata, Kimono đến cá c gian hàng ẩm thực đầy màu sắc: làm thử Sushi – Món ăn truyền thống của Nhật Bản. Đặc biệt, cơ hội tham gia các trò chơi vui nhộn và rút thăm nhận quà hấp dẫn.
Thời gian | Nội dung | Diễn giả |
8:00 – 8:30 | Đón khách, ghi danh, tặng quà. | |
8:30 – 8:40 | Văn nghệ khai mạc | |
8:40 – 9:00 | Khai mạc, giới thiệu đại biểu tham dự. | |
9:00 – 9:30 | Du học Nhật Bản – Những điều được mất | Bà Trịnh Thị Thu Phương – GĐ Cty du học CN Châu Á |
9:30 – 9:45 | Giới thiệu các nét văn hóa độc đáo của Nhật Bản | Hiệu trưởng trường Canaan – Nhật Bản |
9:45 – 10:00 | Giao lưu với Du học sinh khách mời | Du học sinh Nhật Bản |
10:00 – 10:15 | 10 PHÚT Làm quen với tiếng Nhật | Giảng viên người Nhật & HS học bổng Soshi NB |
10:15 – 10:30 | Game Kahoot “TÔI YÊU NHẬT BẢN” | |
10:30 – 11:45 | Tham gia các hoạt động hấp dẫn của Ngày hội | |
11:45 | Rút thăm -> cào thẻ may mắn |
Stt | Thời gian | Nội dung |
1 | Check in Japan | Mặc trang phục truyền thống Nhật Bản & check in núi Phú Sĩ, hoa anh đào |
2 | Góc thư pháp Nhật Bản | Viết thư pháp theo phong cách Nhật cùng du học sinh Nhật Bản |
3 | Gấp giấy Origami cùng Nghệ nhân | Tìm hiểu về nghệ thuật gấp giấy Origami Nhật Bản và tham gia gấp hình theo hướng dẫn của Nghệ nhân. |
4 | Cắm hoa Ikebana | Tự tay & Trải nghiệm nghệ thuật cắm hoa Ikebana cùng nghệ nhân Nhật Bản |
5 | I Love Japan | Chơi game Kahoot có thưởng (trong chương trình khai mạc) TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA, CON NGƯỜI, ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN |
6 | I Love Japan | Chơi game Kahoot có thưởng (trong chương trình khai mạc) TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA, CON NGƯỜI, ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN |
7 | Nghệ thuật ẩm thực Nhật Bản | Thử làm món ăn Nhật Bản cùng chuyên gia và thưởng thức ẩm thực Nhật Bản |
8 | Thẻ cào may mắn | Tham gia rút thăm và cào thẻ may mắn (với nhiều giải thưởng hấp dẫn từ BTC) |
Chương trình ” NGÀY HỘI VĂN HÓA NHẬT BẢN” hứa hẹn sẽ là một ngày hội nhộn nhịp nhất của năm tại Atlantic dành cho tất cả các bạn học sinh, sinh viên yêu thích đất nước, con người Nhật Bản.
Mọi thắc mắc về chương trình, các bạn vui lòng liên hệ:
THÔNG TIN LIÊN HỆATLANTIC GROUP – CÔNG TY TƯ VẤN DU HỌC UY TÍN VỚI 16 NĂM KINH NGHIỆM
VĂN PHÒNG ATLANTIC – CHI NHÁNH TP. HỒ CHÍ MINH:
VĂN PHÒNG ATLANTIC – CHI NHÁNH TP. ĐÀ NẴNG
VĂN PHÒNG ATLANTIC – CHI NHÁNH TP. HẢI PHÒNG
|
]]>
Điều quan trọng là hệ thống giáo dục ĐH của Singapore từ công đến tư đều được khẳng định chất lượng qua các đợt kiểm tra đánh giá cụ thể. Năm 2009, Luật giáo dục tư nhân ra đời đã tạo những điều chỉnh đối với hệ thống trường tư nước này: Từ 1200 cơ sở, đến nay Singapore chỉ còn 349 Học viện giáo dục tư nhân. Theo báo cáo của bà Judy Wong – Giám đốc bộ phận quan hệ kinh doanh và Marketing Tập đoàn giáo dục SIM (của Singarpore) thì tổng số sinh viên Việt Nam, Hàn Quốc, Miến Điện hiện đang chiếm 16% tổng số sinh viên quốc tế tại Singarpore.
Chi phí học tập tại Singapore cũng là lợi thế không nhỏ
Bên cạnh đó, chi phí học tập tại Singapore cũng là lợi thế không nhỏ đối với du học sinh Việt Nam.
Theo bà Judy Wong, chi phí sinh hoạt và học phí của cả trường công và tư tại Singapore rất “cạnh tranh”, tức là sự chênh lệch không quá cao. Học phí trợ cấp của một năm học đối với chương trình kinh tế (năm 2012) của 2 trường ĐH công ở Singapore có phân biệt cụ thể đối với sinh viên bản địa và sinh viên quốc tế. Ví dụ ĐH NUS có mức trợ cấp với sinh viên bản địa là 7.940 USD, với sinh viên quốc tế là 13.660 USD, còn ở ĐH SMU, học phí trợ cấp với sinh viên bản địa là 10.190 USD, với sinh viên quốc tế là 17.530 USD. Riêng đối với Tập đoàn giáo dục toàn cầu SIM, mức học phí trợ cấp cho sinh viên quốc tế và sinh viên bản địa đều chung mức giá 9.000 USD.
Nhiều sinh viên Việt Nam đã từng học tập tại Singapore cũng nhận định, cơ hội việc làm tại Singapore tốt hơn so với trong nước. Cựu du học sinh Lê Phương chia sẻ: ” Ở Singapore không cho phép HSSV đi làm thêm nhưng bù lại sẽ là thời gian học tập các khóa kỹ năng, và khi tốt nghiệp, cơ hội làm việc tại đây rất lớn “.
Cũng chỉ là địa chỉ du học hè…?
Theo kết quả khảo sát của NCTT.VN về thị trường Du học Việt Nam trong khoảng thời gian từ tháng 4-2009 đến 4-2010 thì Singapore là địa chỉ du học hè hấp dẫn nhất đối với học sinh Việt Nam. Được xem là “bước đệm” nên cha mẹ thường cho các em đến những nước có khoảng cách gần và chi phí vừa phải. Còn lại, học sinh Việt Nam chúng ta quan tâm đến việc đi du học ở 36 nước khác nhau. Đứng đầu vẫn là các nước: Úc, Mỹ, Anh, Singapore, Nhật, Bỉ, Canada…
Theo bản báo cáo thường niên về biến động trong giáo dục quốc tế ở Mỹ do Viện Giáo dục Quốc tế xuất bản với sự hỗ trợ của Vụ Văn hóa và Giáo dục thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ: Số lượng sinh viên Việt Nam học tập tại các trường ĐH và CĐ của Mỹ lên tới gần 15.000 người trong năm học hiện tại, đưa Việt Nam lên thứ 8 trong danh sách các nước có nhiều sinh viên học tại Mỹ. Trong năm học 2011, số sinh viên người Việt theo học tại các cơ sở giáo dục ĐH và CĐ của Mỹ đã tăng 14%.
Cũng theo khảo sát của NCTT.VN về thị trường Du học Việt Nam thì Úc là quốc gia được học sinh Việt Nam quan tâm nhiều nhất khi có ý định du học và hiện thời cũng là nước có du học sinh Việt Nam đông nhất. Ở châu Á thì có Singapore và Nhật Bản là hai nước thu hút du học sinh Việt Nam nhiều nhất.
Vì sao chi phí học tập tại Úc, Anh, Mỹ đắt đỏ, khoảng cách địa lý xa hơn và đời sống văn hóa có nhiều khác biệt nhưng du học sinh Việt Nam vẫn xem là lựa chọn hàng đầu, trước cả Singapore có lẽ bởi một vài lý do: Nền giáo dục tiên tiến với những trường luôn xếp hạng hàng đầu thế giới, khuyến khích sáng tạo đặc biệt trong học tập, môi trường giao lưu tiếp xúc văn hóa rộng lớn, bằng cấp chứng chỉ quốc tế và được thừa nhận ở mọi nơi.
Thêm vào đó, thực tế cũng cho thấy, nhiều chương trình đào tạo của Singapore là chương trình liên kết đối với các ĐH ở Anh, Mỹ, Úc, như vậy, thay vì sang Singapore, du học sinh Việt Nam hoàn toàn có thể sang chính các nước này để học, lấy bằng tại chính các trường đại học và đất nước ấy chứ không cần thông qua nước thứ 2. Thậm chí, nhiều trường ĐH hàng đầu trong nước của Việt Nam hiện nay cũng đã có các chương trình liên kết đào tạo, cấp chứng chỉ quốc tế nếu theo học ngay trong nước. Đó có lẽ là lý do khiến học sinh Việt Nam không còn đặt Singapore là ao ước hàng đầu trên con đường du học nữa.
]]>Được ngài Thomas Stamford Raffles khai phá vào ngày 29 tháng 1 năm 1819, và sau đó xây dựng thành đầu mối giao thương buôn bán, Singapore – một làng chài nhỏ bé ngày nào đã nhanh chóng thu hút những người dân nhập cư và các thương nhân đến từ Trung Quốc, tiểu lục địa Ấn Độ, Indonesia, bán đảo Mã Lai và vùng Trung Đông.
Lôi cuốn bởi viễn cảnh tương lai tươi đẹp, những người nhập cư đã mang theo những nét riêng về văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và các lễ hội của mình đến Singapore. Các cuộc kết hôn chéo và sự chung sống hòa hợp giữa những dân tộc khác nhau đã dệt nên một bức tranh văn hóa đầy màu sắc, hình thành nên một xã hội Singapore đa dạng nhiều mặt và để lại cho đảo quốc này một di sản văn hóa phong phú đầy sức sống. Cho đến cuối thế kỉ 19, Singapore đã trở thành một trong những thành phố đa chủng tộc – đa văn hóa nhất của châu Á với các dân tộc chủ yếu là người Hoa, người Mã Lai, người Ấn, người Peranakan và những người lai Á Âu.
Ngày nay, người Hoa chiếm 74,2% dân số Singapore, người Mã Lai – những cư dân đầu tiên của nước này, chiếm 13,44%, người Ấn chiếm 9,2%, còn lại là người lai Á Âu, Peranakan và các dân tộc khác chiếm 3,2%. Singapore còn là nơi sinh sống và làm việc của một cộng đồng người nước ngoài rộng lớn với khoảng 20% là lực lượng lao động phổ thông đến từ Philippin, Indonesia và Bangladesh. Số người nước ngoài còn lại đều là những chuyên gia đến từ nhiều quốc gia khác nhau như Bắc Mỹ, Úc, Châu Âu, Trung Quốc và Ấn Độ.
Tính đa dạng về văn hóa của Singapore còn được phản ánh qua ngôn ngữ. Singapore có ngôn ngữ đại diện cho từng dân tộc trong số bốn nhóm dân tộc chính của mình. Bốn ngôn ngữ chính thức trong Hiến pháp của Singapore là tiếng Anh, tiếng Hoa, tiếng Mã Lai và tiếng Tamil. Tuy nhiên, để ghi nhớ dân tộc Mã Lai là những cư dân bản địa đầu tiên của đất nước, ngôn ngữ quốc gia được chọn là tiếng Bahasa Melayu, hay còn gọi là tiếng Mã Lai.
Sự có mặt của các ngôn ngữ khác, đặc biệt là các biến thể của tiếng Mã Lai và tiếng Hoa, đã có ảnh hưởng rõ rệt đến cách dùng tiếng Anh tại Singapore. Ảnh hưởng này đặc biệt rõ nét trong cách sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp thông thường, một dạng tiếng Anh lai tiếng địa phương thường được biết đến với tên gọi Singlish. Là một dấu hiệu đặc trưng để nhận biết người Singapore, ngôn ngữ này tiêu biểu cho hình thức biến tấu ngôn ngữ bằng cách lồng ghép các từ của tiếng Mã Lai, tiếng Hoa và tiếng Ấn vào tiếng Anh.
Hầu như mọi người dân Singapore đều có thể nói nhiều hơn một thứ tiếng, trong đó nhiều người có thể nói được tới ba hoặc bốn thứ tiếng. Hầu hết trẻ em lớn lên trong môi trường song ngữ từ thuở nhỏ và có thể học các ngôn ngữ khác khi lớn lên.
Trong phần lớn dân số biết hai thứ tiếng, tiếng Anh và tiếng Hoa phổ thông là hai ngôn ngữ được dùng phổ biến nhất trong cuộc sống hàng ngày. Trong khi tiếng Anh là ngôn ngữ chính được dạy ở trường học thì trẻ em vẫn học tiếng mẹ đẻ để duy trì truyền thống văn hóa của dân tộc mình.
Trong số những loại tiếng Hoa địa phương khác nhau thì tiếng Phổ Thông được chọn là ngôn ngữ chính của cộng đồng người Hoa tại Singapore thay vì các biến thể khác như tiếng Phúc Kiến (Hokkien), tiếng Triều Châu (Teochew), tiếng Quảng Đông (Cantonese), tiếng Khách Gia (Hakka), tiếng Hải Nam (Hainanese) và tiếng Phúc Châu (Foochow). Là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến thứ hai của người Singapore gốc Hoa, tiếng Phổ Thông đã được dùng rộng rãi kể từ phong trào “Nói Tiếng Phổ Thông” – phong trào nhắm đến cộng đồng người Hoa trong suốt năm 1980. Trong những năm 90, những nỗ lực này nhằm hướng đến những người Hoa được giáo dục trong môi trường tiếng Anh.
Hãy khám phá những địa điểm văn hóa đa dạng, những khu tôn giáo quanh đảo quốc và làm quen với xã hội đa văn hóa của Singapore. Dù tham gia vào một chuyến du lịch được lên kế hoạch sẵn hay tự mình khám phá Singapore thì trong hành trình của mình, bạn cũng sẽ nắm được một cách khái quát lịch sử đầy ấn tượng, nền văn hoá đa dạng và lối sống của người dân tại đây.
Your Singapore
Sưu tầm
]]>Phố Ả Rập: là trung tâm của đạo Hồi ở Singapore. Nét thu hút du khách là nhà thờ Sultan với mái vòm ánh vàng và rất nhiều cửa hiệu với hàng hóa đa dạng.
Khu tiểu Ấn Độ (Little India): khu vực tiêu biểu nhất cho Singapore trong quá khứ. Khu vực này còn giữ được những nét cố hữu, chưa bị thay đổi bởi những chương trình nâng cấp và hiện đại hóa.
Bến Tàu và Bến Clark: Bến Tàu (Boat Quay) là điểm giải trí ban đêm lớn nhất của Singapore. Bến Clark (Clark Quay) là khu vực những nhà hàng và cửa hiệu được ưa chuộng đối với các gia đình.
Đường Orchard: trên đường phố này là một dãy những khách sạn, nhà hàng, trung tâm mua sắm và giải trí ban đêm rực rỡ sắc màu. Đây là khu vực du lịch chính của Singapore.
Đây là một mê cung chi chít đường phố nằm ngay phía sau khu tài chính có những tòa nhà chọc trời, với những cửa hàng bán hầu như tất cả mọi thứ hàng hoá. Khu vực đông đúc và đầy màu sắc này đã có một số thay đổi trong vòng mấy thập kỷ vừa qua. Ở đây, qua nhiều thế hệ, những người Hoa vẫn tíu tít với công việc kinh doanh trong những cửa hiệu trông cổ xưa và ngồ ngộ nằm ngay dưới tầng trệt.
Ở đây người ta có thấy và nghe những quang cảnh và âm thanh đa dạng. Những tiệm thuốc bắc với da rắn, rau thơm, gia vị và tất cả những món dùng để chữa bệnh. Những sản vật ngon truyền thống như loaị dưa leo biển được phơi ngay trên hè phố. Những người bán trái cây ngồi chồm hổm ngay sau đống chôm chôm. Mùi sầu riêng, mùi xoài hay những trái cây khác theo từng mùa sực nức ở đây. Những thầy bói toán ngồi bên những chiếc bàn xếp chờ khách đến xem. Những người bán quà rong đang nướng những lát thịt heo cho khách qua đường trên những vỉ nướng tự chế.
Ở đây cũng bày bán những bộ kimono thêu, đồ trang sức bằng vàng, áo pun cho đến các loại bình sứ và đồ thủ công mỹ nghệ truyền thống. Khu Tanjong Pagar ở đây bán những mặt hàng như trà, mặt nạ, dù bằng giấy sáp, đồ sơn mài làm từ Trung Quốc, đồ cổ từ khấp các nước châu Á. Những con đường như đường Smith, Trengganu, Temple và Pagoda trông rất hẹp, nhưng ở đây du khách có thể mua hàng với giá rất rẻ.
Bộ mặt hiện đại của phố Hoa kiều có thể thấy được ở khu vực quanh giao lộ các đường Cross, đường New Bridge và đường Eu Tong. Ở đây là các khu thương mại lớn bán đủ các mặt hàng từ đồ điện, điện tử đến vải vóc, mỹ phẩm, đồ thủ công mỹ nghệ địa phương.
]]>Singapore từng là một làng cá của người Mã Lai khi nó bị chiếm làm thuộc địa của Anh vào thế kỷ 19. Sau đó, quân đội Nhật chiếm đóng Singapore trong Thế chiến thứ hai, và sau nữa nước này là một phần trong sự liên kết tạo thành Liên bang Mã Lai. Khi Singapore giành được độc lập, với rất íttài nguyên thiên nhiên, đây là một nước không ổn định về chính trị xã hội và không phát triển về kinh tế. Đầu tư nước ngoài và sự công nghiệp hóado nhà nước chỉ đạo đã tạo ra một nền kinh tế dựa chủ yếu trên xuất khẩu hàng điện tử và gia công.
Hơn 90% dân cư Singapore sống trong các khu nhà xây dựng sẵn của Ban Phát triển Nhà ở và gần một nửa dân cư sử dụng phương tiện giao thông công cộng hàng ngày. Chính nhờ các phương tiện giao thông công cộng này cùng với sự chủ động của chính phủ trong các vấn đề môi trường đã làm cho sự ô nhiễm môi trường ở Singapore chỉ còn lại ở vùng công nghiệp nặng ở đảo Jurong. Theo hiến pháp, Singapore là một nướcdân chủ đại nghị. Ban đầu, Singapore theo thể chế xã hội chủ nghĩa dân chủ sau khi độc lập, sử dụng một hệ thống kinh tế phúc lợi. Tuy nhiên sau đó chính phủ Singapore đã nghiêng dần về phía cánh hữu.
Tên Singapore xuất phát từ Singapura trong tiếng Malaysia (hay tiếng Malay), vốn được lấy từ nguồn gốc của chữ Phạn là singa (sư tử) và pura (thành phố). Từ đó Singapore được biết với cái tên Thành phố Sư Tử . Tên gọi này bắt nguồn từ một vị hoàng tử tên là Sang Nila Utama. Theo truyền thuyết, vị hoàng tử này nhìn thấy một con sư tử là sinh vật sống đầu tiên trên hòn đảo và do đó đặt tên cho hòn đảo là Thành phố Sư Tử (Singapura).
Những bằng chứng đầu tiên về sự tồn tại của hòn đảo được tìm thấy trong những văn bản của Trung Quốc từ thế kỉ thứ 3. Hòn đảo là nơi chiếm đóng của đế chế Sumatran Srivijaya và khởi đầu có tên theo tiếng Java là Temasek . Temasek phát triển thành một thành phố thương mại thịnh vượng nhưng sau đó dần dần suy tàn. Từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 19, Singapore là một phần của Vương quốc Johor.
Năm 1819, ông Thomas Stamford Raffles, một viên chức của công ty East India (của Anh), đã kí một thỏa thuận với vua của Johor. Ông đồng thời thiết lập Singapore trở thành một trạm thông thương buôn bán và nơi định cư, sau này đã nhanh chóng phát triển và thu hút sự di dân từ nhiều chủng tộc khác nhau. Singapore sau đó đã trở thành thuộc địa của Anh năm 1867. Sau một chuỗi các hoạt động mở mang lãnh thổ, Đế quốc Anhnhanh chóng đưa Singapore trở thành một trung tâm tập trung và phân phối dựa vào vị trí rất quan trọng của nó trên con đường biển nối giữa châu Âu và Trung Quốc.
Trong Thế chiến thứ hai, quân đội Đế quốc Nhật xâm chiếm Malaya và những vùng lân cận trong Cuộc chiến Malaya, lên đến cực điểm tại Cuộc chiến Singapore. Quân Anh không được chuẩn bị và nhanh chóng thất thủ mặc dù có lực lượng đông hơn. Anh giao nộp Singapore cho quân Nhật vào ngày 15 tháng 2 năm 1942. Người Nhật đổi tên Singapore sang tiếng Nhật thành Syonan-to , nghĩa là “Ánh sáng Miền Nam”, và chiếm đóng nó cho đến khi quân Anh trở lại chiếm hòn đảo một tháng sau sự đầu hàng của Nhật vào tháng 9 năm 1945.
Singapore trở thành một nhà nước tự chủ năm 1959 với người đứng đầu nhà nước đầu tiên là Yusof bin Ishak và thủ tướng đầu tiên là Lý Quang Diệu sau cuộc bầu cử năm 1959. Cuộc trưng cầu dân ý về việc sát nhập Singapore vào Liên bang Mã Lai đã đạt được năm 1962, đưa Singapore trở thành một thành viên của liên bang Mã Lai cùng với Malaya, Sabah và Sarawak như là một bang có quyền tự trị vào tháng 9 năm 1963. Singapore bị tách ra khỏi liên bang vào ngày 7 tháng 8 năm 1965 sau những bất đồng quan điểm chính trị chính phủ của bang và hội đồng liên bang tại Kuala Lumpur. Singapore được độc lập 2 ngày sau đó, vào ngày 9 tháng 8 năm 1965, sau này đã trở thành ngày Quốc khánh của Singapore. Malaysia là nước đầu tiên công nhận nền độc lập của Singapore.
Độc lập đồng nghĩa với tự túc, Singapore đã phải đối mặt với nhiều khó khăn trong giai đoạn này, bao gồm nạn thất nghiệp, thiếu nhà ở, đất đai và tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ. Với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và Đồng Minh, trong nhiệm kỳ của mình từ năm 1959 đến 1990, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã từng bước kiềm chế thất nghiệp, lạm phát, tăng mức sống và thực hiện một chương trình nhà ở công cộng với quy mô lớn. Các cơ sở hạ tầngkinh tế của đất nước được phát triển, mối đe dọa của căng thẳng chủng tộc được loại bỏ và một hệ thống phòng vệ quốc gia được thiết lập. Singapore từ một nước đang phát triển trở thành một nước phát triển vào cuối thế kỷ 20.
Năm 1990, Goh Chok Tong kế nhiệm chức thủ tướng, đối mặt với nhiều khó khăn bao gồm ảnh hưởng kinh tế từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Ánăm 1997, sự lan tràn của SARS năm 2003 cũng như những đe dọa khủng bố từ Jemaah Islamiah, hậu 11 tháng 9 và các vụ đánh bom ở Bali. Năm2004, Lý Hiển Long, con trai cả của Lý Quang Diệu, trở thành thủ tướng thứ ba.
Singapore là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương bao quanh bởi nhiều đảo nhỏ khác. Có hai con đường nối giữa Singapore và bang Juhor của Malaysia — một con đường nhân tạo có tên Đường nối Johor-Singapor ở phía Bắc, băng quaeo biển Tebrau và chỗ nối thứ hai Tuas, một cầu phía Tây nối với Juhor. Đảo Jurong, Pulau Tekong, Pulau Ubin và Sentosa là những đảo lớn nhất của Singapore, ngoài ra còn có nhiều đảo nhỏ khác. Vị trí cao nhất của Singapore là đồi Bukit Timah với độ cao 166 m.
Vùng thành thị trước đây chỉ tập trung ở khu vực phía Bắc Singapore bao quanh sông Singapore, hiện nay là trung tâm buôn bán của Singapore, trong khi đó những vùng còn lại rừng nhiệt đới ẩm hoặc dùng cho nông nghiệp. Từ thập niên 1960, chính phủ đã xây dựng nhiều đô thị mới ở những vùng xa, tạo nên một Singapore với nhà cửa san sát ở khắp mọi miền, mặc dù Khu vực Trung tâm vẫn là nơi hưng thịnh nhất. Ủy ban Quy hoạch Đô thị là một ban của chính phủ chuyên về các hoạt động quy hoạch đô thị với nhiệm vụ là sử dụng và phân phối đất hiệu quả cũng như điều phối giao thông. Ban đã đưa ra quy hoạch chi tiết cho việc sử dụng đất ở 55 khu vực.
Singapore đã mở mang lãnh thổ bằng đất lấy từ những ngọn đồi, đáy biển và những nước lân cận. Nhờ đó, diện tích đất của Singapore đã tăng từ 581,5 km² ở thập niên 1960 lên 697,25 km² ngày nay (xấp xỉ diện tích huyện Cần Giờ (thành phố Hồ Chí Minh)), và có thể sẽ tăng thêm 100 km² nữa đến năm 2030.
Singapore có khí hậu xích đạo ẩm với các mùa không phân biệt rõ rệt. Đặc điểm của loại khí hậu này là nhiệt độ và áp suất ổn định, độ ẩm cao và mưa nhiều. Nhiệt độ thay đổi trong khoảng 22°C đến 31 °C (72°–88°F). Trung bình, độ ẩm tương đối khoảng 90% vào buổi sáng và 60% vào buổi chiều. Trong những trận mưa lớn kéo dài, độ ẩm tương đối thường đạt 100%. Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất đã từng xuất hiện là 18,4 °C (65,1 °F) và 37,8 °C (100,0 °F).
Sự đô thị hóa đã làm biến mất nhiều cánh rừng mưa nhiệt đới một thời, hiện nay chỉ còn lại một trong số chúng là Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bukit Timah. Tuy nhiên, nhiều công viên đã được gìn giữ với sự can thiệp của con người, ví dụ như Vườn Thực vật Quốc gia. Không có nước ngọt từ sông và hồ, nguồn cung cấp nước chủ yếu của Singapore là từ những trận mưa rào được giữ lại trong những hồ chứa hoặc lưu vực sông. Mưa rào cung cấp khoảng 50% lượng nước, phần còn lại được nhập khẩu từ Malaysia hoặc lấy từ nước tái chế – một loại nước có được sau quá trình khử muối. Nhiều nhà máy sản xuất nước tái chế đang được đề xuất và xây dựng nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu.
+ Bộ trưởng Cố vấn (Minister Mentor): Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew) từ ngày 30 tháng 5 năm 2006 (làm Thủ tướng Singapore từ năm 1965 – 1990) kiêm Chủ tịch Tập đoàn đầu tư Chính phủ Singapore (GIC).
Quốc kỳ của Singapore gồm 2 phần: nửa ở trên màu đỏ và nửa dưới màu trắng. Ngoài ra, ở nửa trên còn có thêm hình trăng lưỡi liềm và 5 ngôi sao. Mỗi một màu, một hình ảnh đều có ý nghĩa riêng của nó. Màu đỏ trên lá cờ Singapore tượng trưng cho mối tình anh em giữa người với người, giữa các dân tộc trên thế giới, và sự bình đẳng của con người. Còn một cách hiểu khác đó là vì Singapore là một nước đa dân tộc (gồm Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ,… ) nên có thể hiểu màu đỏ này theo nhiều mặt: sự can đảm và dũng cảm của những người Malaysia, sự may mắn của những người Trung Quốc. Màu trắng là biểu tượng của sự trong sạch và tinh khôi vĩnh viễn, không nhơ bẩn. Trăng lưỡi liềm có nghĩa biểu trưng cho 1 quốc gia trẻ còn đang trên đường phát triển. Năm ngôi sao nhỏ gần mặt trăng tượng trưng cho năm lý tưởng của quốc gia Singapore: dân chủ, sự bình đẳng, hòa bình, phát triển và công lý.
Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp không phát triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở trong nước. Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngànhcông nghiệp phát triển cao hàng đầu châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á. Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu nhập quốc dân). Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức.
Singapore có 12 khu vực công nghiệp lớn, trong đó lớn nhất là Khu công nghiệp Jurong. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở Châu Á.
Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu nhập quốc dân). Kinh tế Singapore từ cuối những năm 1980 đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới: 1994 đạt 10%, 1995 là 8,9%. Tuy nhiên, từ cuối 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ, đồng đô la Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm 1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Từ 1999, Singapore bắt đầu phục hồi nhanh: Năm 1999, tăng trưởng 5,5%, và năm 2000 đạt hơn 9%. Do ảnh hưởng của sự kiện 11 tháng 9, suy giảm của kinh tế thế giới và sau đó là dịch SARS, kinh tế Singapore bị ảnh hưởng nặng nề: Năm 2001, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt -2,2%, 2002, đạt 3% và 2003 chỉ đạt 1,1%. Từ 2004, tăng trưởng mạnh: năm 2004 đạt 8,4%; 2005 đạt 5,7%; năm 2006 đạt 7,7% và năm 2007 đạt 7,5%. Năm 2009, GDP chỉ tăng 1,2 % do tác động của khủng hoảng kinh tế.
Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến Singapore thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng lưới mới trong nền kinh tế toàn cầu và châu Á và một nền kinh tế đa dạng nhạy cảm kinh doanh.
Hệ thống giao thông công chánh ở Singapore rất phát triển. Chất lượng đường bộ của đảo quốc này được đánh giá là vào loại tốt nhất thế giới. Giao thông tại Singapore được vận hành theo mô hình của Anh, trái với giao thông tay phải của châu Âu lục địa.
Singapore có nhiều loại phương tiện giao thông công cộng, trong đó hai phương tiện phổ biến nhất là xe bus (hơn 3 triệu lượt người mỗi ngày, năm 2010) và tàu điện ngầm mà người Singapore thường gọi là MRT (Mass Rapid Transit) (hơn 2 triệu lượt người mỗi ngày, năm 2010). Người đi xe bus trả tiền mua vé cho từng chặng, ngoại trừ trường hợp họ có thẻ từ tự động EZlink (thẻ này cho phép họ sử dụng dịch vụ của xe bus giá rẻ và trong một thời gian dài). Hệ thống tàu điện ngầm của Singapore có 84 ga với chiều dài 129.9km và có giờ làm việc là từ 06:00 tới 24:00. Taxi cũng là một phương tiện giao thông khá phổ biến ở Singapore nhưng khá khó bắt và đắt trong giờ cao điểm.
Do Singapore có diện tích rất hẹp, nên chính quyền Singapore thường có những biện pháp đặc biệt để tránh tình trạng nghẽn xe, tắc đường. Hệ thống thuế giờ cao điểm ERP (Electronics Road Pricing) được đưa vào hoạt động trong khu vực trung tâm thành phố để giảm lưu lượng xe lưu thông qua các khu vực này vào giờ cao điểm. Số tiền này được trừ thẳng vào thẻ EZLink cài trên xe hơi. ERP có thể lên đến SGD15 nếu 1 chiếc xe chạy qua 5 trạm ERP trong khu vực nội thành.
Singapore cũng có phương tiện giao thông đường thủy phổ biến là thuyền máy nhỏ, tuy nhiên đa số chúng chỉ được dùng cho mục đích du lịch. Các du khách tới Singapore có thể tham quan thành phố bằng đường thủy trên sông Singapore trong những tour kéo dài khoảng 30 phút.
Vào năm 2010, 5,1 triệu người sinh sống tại Singapore, trong số đó 3,2 triệu (64%) mang quốc tịch Singapore trong khi số còn lại (36%) là cư dân định cư hoặc người làm việc ngước ngoài. 2,9 triệu người (57%) được sinh tại Singapore trong khi số còn lại được sinh tại nước ngoài. Tuổi trung bình của người Singapore là 73 và số thành viên trung bình trong gia đình là 3,5 người. Năm 2010, tỉ lệ sinh nở là 1,1 trẻ em trên một phụ nữ, thấp thứ ba trên thế giới và dưới tỉ lệ cần thiết 2,1 để giữ vững số dân. Để giải quết vấn đề này, chính quyền Singapore đang khuyến khích những người nước ngoài tới định cư tại Singapore. Một lượng lớn dân định cư giữ cho dân số của Singapore không giảm quá nhanh.
Khoảng 40 phần trăm dân số là người nước ngoài, đây là tỉ lệ cao thứ sáu trên thế giới. Chính quyền mời gọi người làm việc ngoại quốc, mặc dù điều này đồng nghĩa với việc họ sẽ giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia. Lao động nước ngoài chiếm đến 80% trong ngành công nghiệp xây dựng và 50% trong công nghiệp dịch vụ.
Tổng số dân của nước này là 4.553.009 người (tính đến tháng 7 năm 2007) trong đó 76,8% là người Hoa, 13,9% người Mã Lai, 7,9% người Ấn Độ, Pakistan và Sri Lanka; 1,4% người gốc khác
Về tôn giáo, Singapore là một quốc gia đa tôn giáo, theo thống kê khoảng 51% dân số Singapore theo Phật giáo và Đạo giáo, 15% dân số (chủ yếu là người Hoa, người gốc Âu, và người Ân Độ) là tín đồ Đạo Cơ đốc.Hồi giáo chiếm khoảng 14% dân số, chủ yếu tồn tại trong các cộng đồng người Mã Lai, người Ấn Độ theo Hồi giáo, và người Hồi (người Hoa theo Hồi giáo). Có khỏang 15% dân số Singapore tuyên bố họ không có tôn giáo, cá tôn giáo khác không đáng kể.
Xã hội Singapore là một xã hội đa sắc tộc gồm nhiều nền văn hóa khác nhau như Trung Quốc, Ấn độ, Mã Lai… Trẻ em bắt đầu đi học khi 6 tuổi, hệ thống giáo dục cơ bản của Singapore là 10 năm, 6 năm cấp I và 4 năm cấp II. Sau đó, học sinh có thể chọn tiếp dự bị đại học ( pre-university ) hoặc vào các trường kỹ thuật ( polytechnic ).
Toàn cảnh sông Singapore. Đã từng là trung tâm thương mại trong thời kỳ thuộc địa, hiện nay là một địa điểm du lịch với nhiều quán bar, quán rượu và nhà hàng thức ăn biển dọc sông
Nguồn Atlantic
]]>Để có thể tham gia vào 2 chương trình này ứng viên cần có một số điều kiện nhất định như phải nằm trong danh sách các trường bộ lao động Singapore công nhận như: ĐH Ngoại Thương, ĐH Bách Khoa, ĐH Quốc gia…, có trình độ tiếng Anh khá.
Chúng tôi xin khẳng định luôn rằng chương trình TEP và EP không hề nhẹ nhàng. Vì các bạn sinh viên năm cuối và mới ra trường phải hiểu rằng khi sang Singapore , bạn có xuất phát điểm rất thấp. Chính những kinh nghiệm bạn thu được khi ở cấp độ thấp này sẽ bổ sung vào CV của bạn sau này khi về Việt Nam hoặc tìm kiếm cơ hội ở lại Singapore . Trong bối cảnh kinh tế đi xuống như hiện nay, kiếm được việc làm đã là một sư nỗ lực và đòi hỏi tính cạnh tranh cao.
Bản chất của chương trình này là giúp sinh viên năm cuối có cơ hội được thử sức và trải nghiệm tại Singapore mà không mất nhiều chi phí, khi vừa học vừa làm vừa tận hưởng cuộc sống tại Singapore . Ước tính, nếu bạn muốn tham gia 1 khóa học Tiếng Anh tại Sing thì mỗi tháng bạn sẽ tốn khoảng 40 triệu. Nếu bạn tham gia TEP, bạn được sống và làm việc trong môi trường tiếng Anh và còn có thu nhập từ 10 triệu/tháng trở lên. Ngoài ra, trong quá trình làm việc, bạn sẽ được đào tạo các kỹ năng cần thiết với vị trí công việc.
Khi tham gia chương trình, bạn nên chuẩn bị trước tinh thần về công việc và những khó khăn sẽ gặp phải khi ở một đất nước hoàn toàn mới, xa gia đình, giao lưu với các anh chị đi trước để chia sẻ kinh nghiệm.
]]>Muốn du học thì điều kiện đầu tiên là thành thạo ngoại ngữ rồi. Ở Nhật, ngoài tiếng Anh thì bạn phải dắt lưng cả vốn tiếng bản xứ cho thật nhuyễn nữa.
Tiếng Anh khá thông dụng tại bậc sau đại học nhưng ở bậc đại học, trừ một số chương trình quốc tế, các bài giảng và tài liệu đều dùng tiếng Nhật. Ngoài ra, tiếng Nhật còn được sử dụng ở hầu hết các hội thảo khoa học và các tạp chí trong nước. Tiếng Nhật cũng cần thiết cho bạn trong đời sống sinh hoạt do khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ của người Nhật không cao. Tất cả các bảng hiệu, cửa hàng, thậm chí là thực đơn… đều được ghi hoàn toàn bằng tiếng địa phương, rất ít khi ghi kèm thêm một loại ngoại ngữ nào khác.
Nếu bạn siêu tiếng Anh còn tiếng Nhật thì mù tịt. Lời khuyên dành cho bạn là hãy mau mau đăng kí một khoá tiếng Nhật và chăm chỉ cày trước khi đăng kí du học tại một trường Đại học nào đó tại đất nước sushi nhá!
Người Nhật nổi tiếng biết cách chăm sóc sức khoẻ và Nhật Bản là đất nước có dân số già rất đông. Vì thế khi đến Nhật bạn có thể sẽ ngạc nhiên: Ồ, ở đây sao nhiều cụ già đến vậy? Hehe, có thể bạn sẽ phải thường xuyên nhường ghế trên xe buýt, giúp đỡ các cụ qua đường và đặc biệt phải thật lễ phép khi chào hỏi và nói chuyện với các cụ đấy nha.
Chắc chắn có nhiều teen nhà ta không dám đụng đũa đến huống chi là đưa những miếng cá sống vào miệng. Tuy nhiên nếu bạn muốn du học tại Nhật Bản thì trước tiên phải tập ăn bằng được món cá sống này.
Ở Nhật, món cá này có ở khắp nơi trên đường phố, bạn sẽ thấy rằng, ăn chúng tuyệt ngon và chất lượng vệ sinh cũng như độ an toàn thì… khỏi phải bàn. Thế thì người Nhật mới sống được bao lâu nay mà không bị tiêu chảy hay mắc bệnh về đường ruột liên tục do chén phải món cá này chứ, phải không nào?
Ở Nhật Bản, đa số các trường đại học, cao đẳng và cao học đều là dân lập, còn các trường trung học chuyên nghiệp và kỹ thuật nghiệp vụ là của quốc gia hoặc thuộc hệ thống công lập.
Ngoài việc tổ chức kỳ thi tuyển, nhiều trường đại học ở Nhật có chế độ xét tuyển đặc biệt dành cho du học sinh. Một số nơi chọn sinh viên căn cứ theo điểm kiểm tra năng lực tiếng Nhật và kỳ thi dành cho du học sinh tự túc nước ngoài. Kỳ thi này do Hiệp hội Giáo dục Quốc tế Nhật Bản tổ chức. Ngành nhân văn thi Toán, Sử thế giới, Anh văn; ngành khoa học thi Toán và 2 trong 3 môn Lý, Hóa, Sinh.
Nếu muốn tham dự các chương trình cao học chính quy bạn phải qua kỳ thi tuyển. Thí sinh sẽ làm bài kiểm tra viết các môn như tiếng Nhật hoặc tiếng Anh, chuyên môn và thi vấn đáp. Đối với nghiên cứu sinh thì phần lớn chỉ xét hồ sơ là cho nhập học.
Để vào học cao đẳng thì phải đậu kỳ thi đầu vào do nhà trường tổ chức. Thi tuyển vào trường trung học chuyên nghiệp và kỹ thuật nghiệp vụ được tổ chức bằng cách kết hợp như xét hồ sơ, phỏng vấn, thi tiếng Nhật, môn học, làm bài luận, kiểm tra kỹ năng, năng khiếu.
Nếu bạn thích ăn những món ăn cay xé lưỡi, du học ở Nhật, bạn phải tập ăn uống thanh đạm không gia vị nồng đi thôi. Đa số người Nhật không ăn cay nên hầu hết thức ăn không có ớt, không có vị cay hoặc nếu có thì chỉ phảng phất.
Ở Nhật nếu bạn mua chai tương ớt tại siêu thị thì chắc chắn 100% khi mở ra nó sẽ có mùi vị của tương cà Việt Nam.
Tại các nhà hàng, quán ăn, canteen ở Nhật bạn có kiếm mòn mắt cũng sẽ không thấy bóng dáng của những trái ớt hay những chai tương ớt đâu cả. Có lẽ, thời gian đầu sẽ rất khó với những teen ghiền ăn cay, nhưng dần dà nhịn riết rồi cũng quen thôi!
Không có chuyện ngồi chờ xe buýt “dài cổ” đâu nhé. Người Nhật vốn nổi tiếng là tôn trọng giờ giấc và rất đúng giờ. Thế nên, chẳng có chuyện bạn phải chờ xe buýt dài cổ đâu. Để cho chắc ăn, bạn nên cẩn thận ghi lại lịch chạy của xe buýt được dán sẵn ở mỗi bảng thông báo tại các trạm xe buýt, hay bạn có thể dùng máy ảnh, điện thoại di động chụp nhanh mà cũng tiện.
]]>Hàn Quốc đang duy trì hệ thống giáo dục kiểu đơn tuyến, có nghĩa là chỉ duy trì một hệ thống trường học mà thôi và Hàn Quốc đang chọn hệ thống hiện hành là 6-3-3-4.
Theo đó, cơ chế trường học của Hàn Quốc là: tiểu học 6 năm, trung học cơ sở 3 năm, trung học phổ thông 3 năm, Đại học 4 năm(trường dạy nghề 2-3 năm). Các trường đại học cũng đang mở các chương trình thạc sĩ và tiến sĩ từ 2-3 năm.
Giáo dục tiểu học được xem là nghĩa vụ giáo dục cao nhất và mục đích của trường tiểu học là giáo dục phổ thông tiểu học cơ bản nhất cần thiết trong sinh hoạt của người dân. Và tỷ lệ đi học tiểu học đạt mức hoàn toàn là 99.9%. Đạt được tăng trưởng về lượng như thế này là nhờ cơn sốt giáo dục cao của người dân và chính sách giáo dục của chính phủ. Thông thường, trẻ em Hàn Quốc từ 3-5 tuổi là học mẫu giáo, khỏang từ 5 tuổi là có thể đi học nhưng thông thường thì đến 7 tuổi mới học lớp 1. Thời gian học ở trường tiểu học là 6 năm và đại đa số là trường công lập. Chương trình dạy học của trường công lập và trường dân lập không có sư khác biệt lắm.
Mục đích của trường trung học cơ sở là thực hiện giáo dục trung học cơ sở cao hơn mức giáo dục đã được học ở trường tiểu học. Từ năm 1969, việc tuyển sinh của trường trung học cơ sở đuợc thực hiện theo chế độ không thi tuyển và vì thế nên tất cả học sinh có nguyện vọng học trường trung học cơ sở sẽ được phân vào trường gần với nơi cư trú của các em dựa theo sự bốc thăm của máy vi tính.
Thời gian học ở trường trung học cơ sở là 3 năm và đây cũng là nghĩa vụ giáo dục cao nhất. Tỷ lệ mà trường dân lập chiếm so sánh ở trường tiểu học thì cao nhưng chương trình dạy giữa các trường quốc lập, công lập và dân lập không có sự khác biệt lớn.
Mục đích của trường trung học phổ thông là giáo dục trung học và giáo dục chuyên môn cơ bản cao hơn mức giáo dục đã được học ở trường trung học cơ sở. Trường trung học phổ thông được chia thành trường trung học phổ thông , trường trung học hướng nghiệp và trường trung học khác. Thời gian học là 3 năm và học phí là học sinh tự chi trả.
Trường trung học hướng nghiệp và các trường trung học khác bản thân người học chọn trường nhưng chương trình chung cũng như trường trung học cơ sở là phân vào trường gần với nơi cư trú dựa theo sự bốc thăm của máy vi tính.
Đại học chuyên môn cung cấp chương trình sau bậc giáo dục trung học. Hiện nay, Hàn Quốc có khoảng 150 trường đại học chuyên môn; trong đó, khoảng 10 trường là trường quốc lập, còn lại là trường dân lập. Gần đây, các trường hoàn tất việc xây ký túc xá tăng nhiều và học phí so với các trường đại học hệ 4 năm thì tương đối rẻ hơn.
Mục đích của giáo dục đại học chuyên môn là đào tạo kỹ thuật viên bậc trung cấp bằng việc cung cấp nền tảng của lý thuyết và kỹ thuật vững chắc. Giáo trình được đặc hóa của đại học chuyên môn được phân chia thành công nghệ học, nông học, ngư nghiệp, điều dưỡng, sức khỏe, gia đình, công việc xã hội, nghệ thuật và thể dục v.v. Tùy theo giáo trình mà cung cấp chương trình dạy 2 năm hoặc 3 năm. Một vài chương trình học như điều dưỡng, sức khỏe, vật lý trị liệu, bác sĩ trị liệu, công nghệ học, sinh học, X-quang thì cần phải học 3 năm, các chương trình còn lại thì chỉ cần học 2 năm. Vì học viên sẽ được đào tạo kỹ năng và kiến thức chuyên môn một cách thực dụng nên sau khi tốt nghiệp có thể xin việc làm và nếu muốn có thể xin học lên hệ đại học 4 năm.
Chương trình trình độ cử nhân là đại học hệ 4 năm và hiện nay, ở Hàn Quốc có khoảng 250 trường Đại học. Tuy nhiên, y học, Đông y và nha khoa thì phải học đến 6 năm. Vì Đại học của Hàn Quốc được điều hành theo hình thái của đại học tổng hợp nên mỗi đại học các khoa được mở rất đa dạng.
Ở đa số các trường đại học, đang cố gắng để mỗi học kỳ đạt điểm học cao nhất là 24 điểm và điểm học tối thiểu để tốt nghiệp là 140 điểm. Ở mỗi trường Đại học, phải tự đặt quy định cho bản thân về giới hạn đối với việc đạt được điểm học, điểm học tối thiểu cần thiết để tốt nghiệp, điểm học tiêu chuẩn, và ở mỗi học kỳ điểm cao nhất phải đạt được, điểm học đặc biệt và cách đạt được điểm đó. Trường học tùy theo chủ thể thành lập mà có thể chia thành quốc lập, thành phố lập và dân lập và đại đa số các trường Đại học là trường dân lập.
– Chương trình học chính quy; giáo trình chính quy chung
– Chương trình trao đổi học sinh: giao lưu học sinh theo hiệp định giao lưu của khoa đại học thiết lập quan hệ anh em với nước ngoài.
– Chương trình học trong thời gian nghỉ( nghỉ hè, nghỉ đông): chương trình chính quy trong kỳ nghỉ, luyện tập tiếng Hàn, các bài giảng khác.
– Giáo trình chuyên dụng tiếng Anh
Hiện nay, Ở những trường Đại học mà quan tâm đến việc quốc tế hóa của giáo dục đại học thì trong số tất cả các giáo trình có khoảng 30% giáo trình là giảng dạy bằng tiếng Anh. Tỷ lệ sử dụng giáo trình chuyên dụng tiếng Anh của trường Cao học so với trường Đại học thì cao hơn. Một số trường đại học mở thêm khoa quốc tế và giảng toàn bộ giáo trình bằng tiếng Anh.
Nhiều trường đại học mở thêm học viện ngôn ngữ và soạn giáo trình tiếng Hàn dành cho người nước ngoài. Chương trình ngắn hạn khoảng từ 3-4 tuần mục tiêu là trong một thời gian ngắn tập trung phát triển năng lực trao đổi suy nghĩ của khẩu ngữ. Chương trình tập trung dài hạn từ 10-40 tuần thông qua những chủ đề liên quan đến cuộc sống thực tế làm phát triển năng lực trao đổi ý nghĩ và song song với tiết học văn hóa làm nâng cao hiểu quả học tập nhờ mở rộng hiểu biết về văn hóa.
Nếu tốt nghiệp đại học thì có thể học lên chương trình thạc sĩ và tiến sĩ và đuợc cấp bằng. Thạc sĩ thông thường học 2-3 năm, còn tiến sĩ học 2-4 năm. Hầu hết ở tất cả các trường đại học của Hàn Quốc đều có chương trình thạc sĩ và tiến sĩ nên sẽ không khó khăn mấy trong việc học lên thạc sĩ và tiến sĩ.
]]>Hiện tại điều kiện để du học Singapore khá đơn giản, con của bạn chỉ cần tốt nghiệp tiểu học là có thể du học tại đất nước xinh đẹp này.
Ms. Mỹ Ngọc, công ty tư vấn du học Đại Tây Dương
]]>
Để có thể đi du học Nhật Bản bạn cần đáp ứng được những điều kiện sau:
Ms. Mỹ Ngọc, công ty tư vân du học Đại Tây Dương
]]>