Người Hàn là một dân tộc duy nhất nói một ngôn ngữ. Với những đặc tính riêng về thể chất, người Hàn được coi là con cháu của một vài bộ lạc Mông Cổ từ vùng Trung Á di cư đến bán đảo Triều Tiên.
Vào thế kỷ thứ 7, rất nhiều quốc gia của Bán đảo lần đầu tiên đã được thống nhất dưới thời vương quốc Silla (57 tr.CN – 935 s.CN). Sự đồng nhất như vậy đã làm cho người Hàn hầu như không bị vướng vào những vấn đề dân tộc và duy trì được tình đoàn kết vững chắc.
Cuối năm 2007, dân số của Hàn Quốc là 48 triệu 450 nghìn người, của CHDCND Triều Tiên là 23 triệu 200 nghìn người, tổng dân số của Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên gộp lại là 71 triệu 650 nghìn người.
Tốc độ tăng dân số những năm 60 là 3%/1 năm, bước vào những năm 70 tốc độ này giảm xuống còn 2%/1 năm. Năm 2005 tỷ lệ tăng dân số là 0,21% và dự đoán đến năm 2020 tốc độ này giảm xuống còn 0,02%.
Một khuynh hướng đáng chú ý trong nhân khẩu học của Hàn Quốc là dân số đang già đi theo từng năm. Con số thống kê vào năm 1999 cho thấy 6,9% dân số của Hàn Quốc ở độ tuổi 65 trở lên và đến năm 2005, con số này là 9,1%. Chiều hướng già đi của dân số là do tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ cao, dự tính đến năm 2020 thành phần dân số già sẽ chiếm khoảng 15,7%.
Trong những năm 1960, cơ cấu dân số của Hàn Quốc tạo hình một kim tự tháp, với tỉ lệ sinh cao và tuổi thọ tương đối ngắn. Tuy nhiên cơ cấu theo độ tuổi hiện nay đang tạo thành một hình chuông bởi tỉ lệ sinh thấp và tuổi thọ trung bình kéo dài. Tính tới năm 2020, tỉ lệ dân số trẻ (dưới độ tuổi 15) sẽ giảm xuống, trong khi dân số già (trên độ tuổi 65) sẽ chiếm khoảng 15,7% tổng số dân.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra nhanh chóng trong những năm 1960 và 1970 đã kéo theo sự di chuyển liên tục của những người dân từ nông thôn ra thành phố, đặc biệt là Seoul, làm cho dân số tăng nhanh tại những khu vực này. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, số cư dân Seoul di chuyển ra vùng ngoại ô đang tăng dần lên.
Theo hanquocngaynay.com